Ở người Việt Nam, tư duy lưỡng phân lưỡng hợp bộc lộ rất đậm nét qua khuynh hướng CẶP ĐÔI ở khắp nơi, từ tư duy đến cách sống, từ các dấu vết cổ xưa đến những thói quen hiện đại
Triết lí âm dương là sản phẩm trừu tượng hóa từ ý niệm và ước mơ của cư dân nông nghiệp về sự sinh sản của hoa màu và con người. Từ hai cấp đối lập gốc “mẹ - cha” và “đất - trời” người xưa dần dần suy ra hàng loạt cặp đối lập như những thuộc tính của âm dương. Lối tư duy đó tạo nên ở người Đông Nam Á cổ đại một quan niêm lưỡng phân lưỡng hợp (= nhị nguyên) có phần chất phác và thô sơ về thế giới.
Từ tư duy lưỡng phân lưỡng hợp, trên cơ sở các cặp đối lập rõ nét, người Đông Nam Á xưa hơn đã mở rộng dần ra để tìm cách xác lập bản chất âm dương cho những khái niệm, sự vật biệt lập. Quá trình này chắc đã dẫn họ tời chỗ cảm nhận được tính hai mặt của âm dương và quan hệ chuyển hóa lẫn nhau giữa chúng. Có lẽ những ý niệm còn cô phần hồn nhiên và chất phác đó đã là tiền đề giúp cho tổ tiên người Hán phạm trù hóa và hệ thống hóa chúng thành triết lí âm dương dưới dạng như chúng ta đã biết.
Ở người Việt Nam, TƯ DUY LƯỠNG PHÂN LƯỠNG HỢP bộc lộ rất đậm nét qua khuynh hướng CẶP ĐÔI ở khắp nơi, từ tư duy đến cách sống, từ các dấu vết cổ xưa đến những thói quen hiện đại:
a. Trong khi trên thế giới, vật tổ của các dân tộc thường là một loài động vật cụ thể (chim ưng, đại bang, chó sói, bò…) thì vật tổ của người Việt là một cặp đôi trừu tưng Tiên–Rồng. Những khái niệm truyền thuyết mang tính cặp đôi cũng gặp ở người Mường (chim Ây –cái Ứa), người Tày (Báo Luông – Slao Cái), người Thái (nàng Kè – tạo Cặp)… – đó là những dấu vết của tư duy âm dương thời xa xưa.
b. Ở Việt Nam, mọi thứ thường đi đôi từng cặp theo nguyên tắc âm dương hài hòa: ông Đồng – bà Cốt, đồng Cô – đồng Cậu, đồng Đức Ông – đồng Đức Bà… Khi xin âm dương (= xin keo) thì hai đồng tiền phải một ngửa một sấp; ngói âm dương lợp nhà phải viên ngửa viên sấp; khi ghép gỗ thì phải một tấm có gờ lồi ra khớp với tấm kia có rãnh lõm vào… Lối tư duy âm dương khiến người Việt nói đến đất, núi liền nghĩ ngay đến nước, nói đến cha liền nghĩ ngay tới mẹ: Công CHA như núi Thái Sơn, Nghĩa MẸ như nước trong nguồn chảy ra.
c. Tổ quốc đối với người Việt Nam là một khối âm dương: ĐẤT NƯỚC. Đất–Nước, Núi–Nước, Non–Nước, Lửa–Nước là những cặp khái niệm thường trực. Ở Tây Nguyên, phần lớn các địa danh đều bắt đầu bằng chư (= núi, vd: Chư Sê) và krông, dak (= sông, nước, vd: KroongPa, Dak B’la). Một thời, ở Tây Nguyên đã từng tồn tại các vương quốc của Vua Lửa (Pơtao Pui) và Vua Nước (Pơtao la).
d. Ngay những khái niệm vay mượn đơn độc, khi vào Việt Nam cũng được nhân đôi thành cặp: ở Trung Hoa, thần mai mối là một ông Tơ Hồng thì vào Việt Nam được biến thành ông Tơ – bà Nguyệt; ở Ấn Độ chỉ có Phật ông thì vào Việt Nam xuất hiện Phật Ông – Phật Bà (người Mường gọi là Bụt đực, Bụt Cái)…
e. Biểu tượng âm–dương dùng phổ biến hiện nay (hình 2.1) mới được đặt ra từ đầu Công nguyên. Trong khi đó thì người Việt vẫn giữ được một biểu tượng âm–dương có truyền thống lâu đời hơn – biểu tượng vuông–tròn. Có vuông có tròn, tức là có âm có dương; nói “vuông tròn” là nói đến sự hoàn thiện. Thành ngữ có câu: Mẹ tròn con vuông, Ba vuông bảy tròn… Ca dao thì có: Ba vuông sánh với bảy tròn, Đời cha vinh hiển, đời con sang giàu…; Lạy trời cho đặng vuông tròn, Trăm năm cho trọn lòng son với chàng! Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du viết: Trăm năm tính cuộc vuông tròn, Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch song; Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn, Khuôn xanh biết có vuông tròn mà hay?
Một điều rất lí thú là. gần đây, chúng tôi phát hiện ra rằng ở rìa ngoài mặt trống đồng Yên Bồng (Lạc Thủy, Hòa Bình) và trống Thôn Mống (Nho Quan, Ninh Bình) có các hình biểu tương âm dương vuông – tròn và tròn – vuông lồng vào nhau. Tiền đồng cổ Việt Nam qua các thời đại với lỗ vuông ờ giữa chính là dấu vết truyền thống của biểu tượng âm dương này. Trên cái nền rộng như thế mới hiểu được rằng cách giải thích quan niệm “Trời tròn đất vuông” theo lối dân gian (trời tròn như cái bát úp, đất như cái mâm vuông) chỉ là một cách lí giải ngây thơ: thực ra đó là một cách nói về triết lí âm dương mang tính hình tượng: Sở dĩ trời tròn vì trời là dương, mà biểu tượng của dương là tròn: đất vuông vì đất là âm, mà biểu tượng của âm là vuông.
Người Việt Nam còn nhận thức rõ về HAI QUY LUẬT của triết lí âm dương. Những quan niệm dân gian kiểu: “Trong rủi có may, trong dở có hay, trong họa có phúc”; “Chim sa, cá nhảy chớ mừng, Nhện sa, xà đón xin đừng có lo “… là gì nếu không phải là sự diễn đạt cụ thể của quy luật “trong dương có âm” và “trong âm có dương”? Những nhận thức dân gian về quan hệ nhân quả kiểu: Sướng lắm khổ nhiều; Trèo cao ngã đau; Yêu nhau lắm, cắn nhau đau; Nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ; Con vua thì lại làm vua, Con sãi ở chùa lại quét lá đa, Bao giờ dân nổi can qua, Con vua thất thế lại ra quét chùa… là gì nếu không phải là sự diễn đạt cụ thể của quy luật “âm dương chuyển hóa”?
Chính nhờ có lối tư duy âm dương từ trong máu thịt mà người Việt Nam có được triết lí sống quân bình: Trong cuộc sống gắng không làm mất lòng ai; trong việc ăn ở, gắng giữ sự hài hòa âm dương trong cơ thể và hài hòa với môi trường thiên nhiên… Triết lí quân bình âm dương được vận dụng không chỉ cho người sống mà ngay cả cho người chết: Trong những ngôi mộ cổ ở Lạch Trường (Thanh Hóa) có niên đại vào thế kỉ III trCN được gióng theo hướng nam – bắc, các đồ vật bằng gỗ (dương) được đặt ở phía bắc (âm) và, ngược lại, các vật bằng gốm đất (âm) được đặt ở phía nam (dương). Cách sắp xếp âm dương bù trừ nhau này rõ ràng là để tạo ra sự quân bình. Do triết lí quân bình âm dương, ngay cả hộ pháp ở chùa cũng có ông Thiện ông Ác (Thiện trước Ác sau).
Chính triết lí quân bình âm dương này tạo ra ở người Việt một khả năng thích nghi cao và mọi hoàn cảnh (lối sống linh hoạt), dù khó khăn đến đâu vẫn không chán nản. Người Việt Nam là dân tộc sống bằng tương lai (tinh thần lạc quan): thời trẻ khổ thì tin rằng về già sẽ sướng, suốt đời khổ thì tin rằng đời con mình sẽ sướng (Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời…).