Thăm Kinh đô Cổ Loa - nghĩ về tình yêu của người phụ nữ

Chủ nhật - 17/10/2021 18:04

Nhân chuyến thăm và làm việc tại Cổ Loa, nơi đây 1082 năm trước, Ngô Quyền đã chọn làm Kinh đô của nước Việt Nam độc lập, lại suy nghĩ về Truyền thuyết Mỵ Châu – Trọng Thủy và tình yêu của người phụ nữ
Đình Ngự triều Di quy trong khu di tích Cổ Loa
Nói đến Cổ Loa, chúng ta nghĩ ngay đến truyền thuyết về An Dương Vương được thần Kim Quy bầy cho cách xây thành và chiếc lẫy nỏ thần làm từ móng chân rùa thần đến mối tình bi thương của nàng Mỵ Châu – Trọng Thủy.

Đằng sau những câu chuyện thiên về tâm linh ấy, chúng ta còn khám phá những giá tri vô cùng to lớn của khảo cổ học về Cổ Loa lịch sử. Nơi đây là kinh đô của Nhà nước Âu Lạc và năm 939 Ngô Quyền xưng Vương cũng lấy Cổ Loa làm kinh đô, lập lên Nhà nước độc lập, tự chủ sau hơn một nghìn năm Bắc thuộc của phong kiến phương Bắc. Ngô Quyền người Anh hùng dân tộc, tổ Trung hưng đất nước đã mở ra một thời kỳ mới, kéo dài gần nửa thiên niên kỷ của Việt Nam với những thời đại sau là: Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần.
 
Nói đến mối tình Mị Châu - Trọng Thủy, Nhà thơ Tố Hữu có thơ rằng: “Tôi kể ngày xưa chuyện Mị Châu/Trái tim lầm chỗ để trên đầu/Nỏ thần vô ý trao tay giặc/Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu”. Sau nhiều lần đọc và suy nghĩ về truyền thuyết ấy, một câu hỏi được đặt ra, cần thấu hiểu nguyên nhân sâu xa và trực tiếp của thất bại này. Sao người đời cứ quy hết trách nhiệm cho người con gái, người phụ nữ chân yếu tay mềm, với tình yêu nhưng mù quáng của mình để mất cảnh giác. Mà không nhìn khía cạnh của vương triều sau một thời gian không rèn quân, luyện cán, say mê với chiến thắng, chủ quan khinh địch, mất cảnh giác nên nỗi cơ đồ bị tiêu tan. Đó là bài học chung của mọi người, nhất là Nhà nước Âu lạc và trên mỗi phương diện, góc nhìn khác nhau, chứ đâu chỉ là tình yêu mù quáng, chỉ tại có Mị Châu, nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu.

Thành Cổ Loa, kinh đô của Nhà nước Âu Lạc được xây dựng vào Thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên (TCN), Theo sách Lịch triều hiến chương loại chí, thời Âu Lạc, Cổ Loa là xã thuộc huyện Yên Phong, thời cổ gọi là Phong Khê, vị trí đỉnh của tam giác châu thổ sông Hồng và là nơi giao lưu quan trọng của đường thủy và đường bộ. Tại đây có thể kiểm soát được cả vùng đồng bằng và vùng sơn địa. Cổ Loa là khu đất đồi cao nằm ở Tả ngạn sông Hoàng Giang. Con sông này qua nhiều thế kỷ bị phù sa bồi đắp nay trở thành con lạch nhỏ, nhưng xưa kia sông Hoàng Giang là một con sông nhánh lớn quan trọng của sông Hồng. Do vậy Cổ Loa có vị trí giao thương thuận lợi và có vị trí chiến lược vô cùng quan trọng. Về đường thủy là vị trí nối liền hai con sông Thái Bình và sông Hồng. Đất Phong Khê trù phú ngày xưa, vùng đồng bằng, nơi đây xóm làng, dân chúng đông đúc, sống bằng nghề làm ruộng, bắt cá và làm nghề thủ công…Việc dời đô từ Phong Châu khu vực miền núi, ngã ba sông: Sông Hồng, sông Đà, sông Lô chuyển dịch xuống ngã ba sông khu vực đồng bằng: Sông Hồng, sông Đuống, chạy ven Cổ Loa còn có con sông Hoàng Giang đánh dấu một giai đoạn phát triển của người Việt cổ trong thời cổ đại, có truyền thống gắn với sông nước. Ngoài ra xét về mặt lịch sử thành Cổ Loa xưa mang ý nghĩa to lớn. Nơi đây đánh dẫu cột mốc dân tộc ta bắt đầu chuyển sang định cư và đóng đô từ vùng núi nghèo khó sang vùng đồng bằng trù phú, đất đai màu mỡ và thuận lợi cho giao thương.  Thời kỳ Âu Lạc chưa có gạch, nên Thành Cổ Loa được xây bằng đất. Trong những thành cổ của Việt Nam còn lại đến nay, Thành Cổ Loa được xếp vào những kiến trúc, thành quách có niên đại lịch sử lâu đời nhất lên đến 2.300.000 năm.

Sau chiến thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, năm kỷ Hợi - năm 939 thế kỷ thứ 10 Sau Công nguyên (SCN) Ngô Quyền xưng vương lại chọn kinh đô thời bấy giờ là Cổ Loa, thuộc huyện Đông Ngàn, xứ Kinh Bắc (nay là huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. Thành Cổ Loa nằm trên địa phận của 03 xã Cổ Loa, Dục Tú và Việt Hùng, cách trung tâm thủ đô Hà Nội 17 km về phía Bắc, có diện tích bảo tồn gần 500 ha, là Khu di tích lịch sử - văn hóa quốc gia đặc biệt. Thành Cổ Loa được Nhà nước công nhận Di tích lịch sử - văn hóa Quốc gia từ năm 1962, đến năm 2012 thành Cổ Loa được công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa Quốc gia đặc biệt).
Một câu hỏi được đặt ra, tại sao Ngô Quyền lại chọn kinh đô là thành Cổ Loa mà không chọn nơi nào khác? Các nhà sử học nước ta đã khẳng định: Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán phương Bắc, giành độc lập cho dân tộc, Cổ Loa được chọn là kinh đô, bởi nơi đây là kinh đô của nước Âu Lạc xưa. Đó là Ngô Quyền khẳng định nối lại Quốc thống. Đồng thời Cổ Loa có vị trí chính trị, quân sự phòng thủ chiến lược, là trung tâm kinh tế một thời của nước ta trước khi bị phong kiến phương Bắc đô hộ. Đây còn là nơi giao thương sầm uất, đông dân không kém thành Đại La. Cổ Loa nằm ven bờ sông Đuống và sông Hoàng Giang trước đây chạy ven quanh thành, thuận tiện cho việc cơ động bằng đường thủy ra cửa biển Bạch Đằng…Đến nay tìm diện mạo của kinh đô Cổ Loa trong thời Ngô Quyền là một điều rất khó, vì Ngô Quyền mất sớm, (939 – 944) triều đại nhà Ngô từ Tiền Ngô vương, Hậu Ngô vương, Nam Tấn vương và vị vua cuối cùng của nhà Ngô là Ngô Xương Xí (năm 968), mới có 29 năm, trong khi đó các tài liệu, thư tịch ghi lại rất ít.

Thành Cổ Loa hai lần được chọn là kinh đô của nước Việt, được xây dựng theo kiểu hình trôn ốc, quanh co chín lớp, chu vi chín dặm, xoáy tròn, vì thế được gọi là Loa Thành, hay còn gọi là Thành Ốc. Đến nay thành Cổ Loa về vật chứng thành còn lại là:

1. Thành Loa:

Tòa thành cổ: Dấu tích còn lại cổ nhất, đồ sộ và quy mô nhất, kiến trúc độc đáo hiện còn tồn tại với kiến trúc kiểu dáng đẹp. Thành Cổ Loa là thành đầu tiên của Đông Nam Á, là tòa thành cổ nhất của nước ta. Đây là Tòa thành bề thế, kiến trúc độc đáo và trung tâm đô thành của nhà nước Âu lạc lúc bấy giờ. Di tích chỉ còn lại ba vòng khép kín trong tổng số 9 vòng trôn ốc với chu vi trên 16 km. Ngoài ra còn có các ụ đất, những đoạn lũy bên trong cũng như bên ngoài thành, cùng những vòng hào khép kín xung quanh ba vòng thành.

a.Tường thành: Theo thiết kế Loa Thành hình Trôn Ốc có chín vòng, đến nay chỉ còn có ba vòng: Tường thành ngoại, tường thành trung và tường thành nội.
+ Tường thành ngoại là một vòng tường kép kín, theo những gò đống thiên nhiên có sẵn nên không theo một hình dáng nào, thậm chí có đoạn thiên nhiên đã có sẵn không phải đắp thành.
+ Tường thành trung: Là một vòng kép kín, cũng không có hình dánh nhất định mà cũng dựa vào gò đống thien nhiên mà đắp nối lại với nhau, men theo các đầm, hồ. Chiều dài khoảng 6.500 mét.
+ Tường thành nội mang dáng vẻ khác hẳn hai vòng tường trên, có hình chữ nhật nghiêm chỉnh, chu vi khoảng 1650 mét, mặt thành rộng khoảng 10 mét, chân thành rộng khoảng 20 mét, tường thành cao khoảng 5 mét.

b. Hào ngoài:
Cả ba vòng tường thành đều có hào ngoài. Hào thành ngoài phía Tây Nam lợi dụng con sông Hoàng chảy gần sát tường thành, và đào đắp để con sông Hoàng có thể chảy thông khắp quanh thành.Hào thành giữa cũng nối với hào thành ngoài ở Cột Cờ và Đầm Cả. Hào thành trong được dào quanh tường thành, đó là một vòng hào kép kín, nối với con sông Hoàng bằng những lạch nước.

c. Cửa thành: Vòng thành trong được xây dựng theo bốn hướng chính: Nam, Bắc, Đông, Tây, nhưng chỉ mở một cửa ở chính giữa thành phía Nam. Vòng thành giữa mở bốn cửa: Cửa Bắc, cửa Tây Bắc, của Tây Nam, của Trấn Nam.
 
2. Đền thờ An Dương Vương hay còn gọi là đền Thượng:
xây năm 1687 đời Lê Hy Tông, sửa lại năm 1689. Đền nằm ở Trung tâm thành  được coi là nơi Vua Thục Phán trước kia từng ở. Vị trí đền nằm trên một gò đất hình đầu rồng, hai bên là hai cánh rừng, phía dưới có hố tròn là mắt rồng. Cửa đền có hai con rồng đá uốn khúc, trong đền có đôi ngựa hồng xây dựng năm 1716, tượng đồng vua Thục Phán đức năm 1897, nặng 255 kg.
 
3. Giếng Ngọc: Ngay trước đền là một hồ bán nguyệt, theo truyền thuyết: là nơi mà Trọng Thủy đã gieo mình tự vẫn. Giữa hồ đắp bờ tạo thành giếng Ngọc, nơi đây sau khi phản bội, Trọng Thủy tự tử, nước giếng này rửa ngọc trai thì ngọc sáng đẹp.

4. Am Bà chúa: Ngay sau cây đa tỏa bóng mát rộng lớn, gốc đa rẽ đôi thành chiếc cửa tò vò, thiên nhiên mở lối đi vào am. Tượng Bà chúa Mỵ Châu là hòn đá tự nhiên có hình dáng người cụt đầu. Sau khi Mỵ Châu hóa thành hòn đá to trôi dạt về đường Cấm, phía Đông thành Cổ Loa, dân trong thành đem võng ra cáng về đến gốc cây đa thì đứt võng, hòn đá rơi xuống, nên lập Am thờ ngay tại đó.    
Khi Ngô Quyền xưng vương tại Cổ Loa, cũng tại nơi này sau có huyền tích Ngô Quyền có nhân vật thứ phi là bà Đào/Đỗ Thị Sa, ở Dục Tú, Đông Anh, Hà Nội. Ngay trong cuốn Lịch sử Thăng Long - Hà Nội tác giả cũng viết: “Ký ức dân gian còn nhắc đến một cái “giếng Ngô Quyền” ở trước cửa Nam Thành Nội (tuy nhiên dấu tích của giếng xây đá, gạch mới), nơi đây có một cây đa nghìn năm tuổi ở trước cửa Am Mỵ Châu (nhưng nay đã chết, được thay bằng một cây đa mới) và nói về bà Đào/Đỗ Thị Sa là Thứ phi của Ngô Quyền”. Qua tấm bia Hậu Phật bi ký, có niên đại vào năm 1633, tại chùa Dục Tú, chúng ta thấy ghi rõ: Người sống trong nội cung của phủ chúa Trịnh, quê thôn Tiền, xã Dục Tú, được toàn thể quan viên, chức sắc già trẻ trong làng bầu làm hậu phật có tên là Đào/Đỗ Thị Sa.Thư tịch cổ và Phả hệ họ Ngô Việt Nam không có dòng nào viết Ngô Quyền trong thời gian ở thành Cổ Loa lấy bà thứ phi tại làng Dục Tú, Đông Anh, Hà Nội. Bà thứ phi tên gọi Đào/Đỗ Thị Sa chỉ có trong truyền thuyết dân gian tại Cổ Loa mà thôi. Bà Đào/Đỗ Thị Sa chỉ là một cung phi Vương phủ, tức là Vương phi của một vị vua chúa nào đó trong phủ chúa Trịnh chứ không phải bà Đào/Đỗ Thị Sa là thứ phi của Ngô Quyền cách thời đại của bà 7 thế kỷ.

5. Đình Ngự Triều Di Quy: Đình Ngự Di Quy còn gọi là Ngự Đình - Đình Cổ Loa được xây dựng trên nền điện thiết triều cũ, năm 1907 thời Nguyễn. Dáng vóc vững chãi, bề thế, mái đao vút cong, cột đình có đôi câu đối của Tôn Thất Thuyết, một thủ lĩnh Cần Vương.

6. Đền Cao Lỗ: Thành Cổ Loa còn có Đền thờ Cao Lỗ, Cao Lỗ còn có tên là Thông, sinh tại thôn Sỹ Lộ, trang Đại Than, tổng Vạn Ty, huyện Gia Bình, phủ Thuận Thành, tỉnh Vũ Ninh (xưa) nay là tỉnh Bắc Ninh. Ông là một tướng tài của vua An Dương Vương và là người sáng chế ra nỏ Liên Châu (còn gọi là nỏ thần) bắn nhiều mũi tên cùng lúc. Chính Cao Lỗ là người giúp vua An Dương Vương tìm ra đất Phong Khê (Cổ Loa) và thiết kế, tổ chức xây Loa Thành (Thành Cổ Loa).

Nhân dịp thăm kinh thành Cổ Loa xưa và đọc truyền thuyết tình yêu Mỵ Châu - Trọng Thủy, chúng tôi có một số ý kiến về tình yêu mù quáng và quan niệm về người phụ nữ thời xưa cũng như bài học mất cảnh giác của vua An Dương Vương - nhà nước phong kiến thời bấy giờ. Đây là bài học sâu sắc tuy đã cách xa thời đại chúng ta nhưng nó vẫn còn nguyên giá trị. Đồng thời đề nghị các nhà sử học thời nay cần chỉnh sửa những sai sót về lịch sử cho rằng bà Đào/Đỗ Thị Sa là thứ phi của Đức vương Ngô Quyền. Những kiến nghị về những sai sót trên đã được các nhà khoa học phát biểu tại “Hội thảo khoa học Ngô Quyền với Cổ Loa năm 2014”. Là người con họ Ngô, chúng tôi tiếp tục có kiến nghị như trên với các nhà sử học về vấn đề này để đem lại sự trung thực và đúng đắn của lịch sử.
                                                                          
Ngô Xuân Bình


 

Tổng số điểm của bài viết là: 5 trong 1 đánh giá

Xếp hạng: 5 - 1 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Mã bảo mật   
Liên kết website
Thống kê
  • Đang truy cập280
  • Máy chủ tìm kiếm2
  • Khách viếng thăm278
  • Hôm nay62,370
  • Tháng hiện tại782,604
  • Tổng lượt truy cập41,411,711
Đăng ký
Hãy đăng nhập thành viên để trải nghiệm đầy đủ các tiện ích trên site
Mã bảo mật
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây