Đô đốc Bùi Thị Xuân, nỗi ngậm ngùi bên cửa Nhật Lệ

Thứ tư - 17/05/2017 20:02

Triều vua Quang Trung có vài nữ tướng, trong số đó nổi bật hơn cả là Đô đốc Bùi Thị Xuân.
Tượng đài đô đốc Bùi Thị Xuân. Nguồn: internet
Tượng đài đô đốc Bùi Thị Xuân. Nguồn: internet

 


I. Tiểu sử

Bùi Thị Xuân (?- 1802) Quê ở làng Phú Xuân, xã Bình Phú huyện Bình Khê, nay là huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Chưa rõ tên cha mẹ, chỉ biết bà là cháu thái sư Bùi Đắc Tuyên.
Bà là người phụ nữ xinh đẹp, nhờ sớm học võ với Đô thống Ngô Mãnh nên rất giỏi võ nghệ, nhất là môn song kiếm. Chuyện kể rằng, trên đường đến Tây Sơn tụ nghĩa, Trần Quang Diệu đã đánh nhau với một con hổ lớn hung dữ. Nhân đi qua đấy, Bùi Thị  Xuân đã rút kiếm xông vào cứu trợ. Quang Diệu bị hổ vồ trọng thương nên phải theo bà về nhà chữa trị.
Sau hai người thành gia thất rồi cùng nhau về tòng quân dưới ngọn cờ Tây Sơn ở chiến khu Phú Lạc. Nhờ vào tài nghệ về chiến thuật, binh bị cộng với lòng dũng cảm, vợ chồng bà nhanh chóng trở thành những tướng lĩnh trụ cột, góp công lớn trong công cuộc đánh đuổi quân Mãn Thanh vào đầu xuân Kỷ dậu 1789 và so tranh quyết liệt với quân Nguyễn Ánh hơn 10 năm.
Người ta còn kể, khi đến với Nguyễn Huệ, người con gái trẻ đẹp làng Xuân Hòa này không chỉ tòng quân một mình mà còn dẫn theo một đội nữ binh do mình đào tạo và một đoàn voi rừng đã được bà rèn luyện thuần thục. Trước khi gia nhập quân Tây Sơn, bà đã tự phong là “Tây Sơn nữ tướng”. Sau này bà được hội kiến với Nguyễn Huệ, Huệ cũng thừa nhận bà rất xứng đáng với danh xưng đó; và Vương còn ban tặng thêm bốn chữ “Cân quắc anh hùng” (Anh hùng khăn yếm).
Giữa lúc Tây Sơn đang rất thành công với các hoạt động chính trị, quân sự, ngoại giao và phát triển kinh tế thì đột ngột vào ngày 29/7/1792, Quang Trung (Nguyễn Huệ) mất, để lại nhiều thương tiếc.
Cũng từ đây triều đại Tây Sơn bắt đầu suy yếu do vua Cảnh Thịnh (Quang Toản) còn nhỏ, bất tài nên đã không giữ được việc triều chính, bị họ ngoại chuyên quyền, dẫn đầu số đó là người cậu, Thái sư Bùi Đắc Tuyên, làm cho các đại thần kết bè phái, quay sang giết hại lẫn nhau dẫn đến nội bộ lục đục, triều chính suy vi, khiến lòng dân vốn đã sống quá nhiều năm trong cảnh máu lửa càng thêm oán ghét cảnh phân tranh, loạn lạc. Và đây thật sự là một cơ hội vàng cho đối phương.
Tức thì, Nguyễn Ánh xua quân chiếm lại Quy Nhơn vào năm 1799. Bùi Thị Xuân cùng chồng một mặt tham gia củng cố triều chính, một mặt chỉ huy quân sĩ giữ lũy Trấn Ninh, chống lại quân Nguyễn. Tuy nhiên trước sức tấn công mạnh mẽ của Nguyễn vương, các thành luỹ của Tây Sơn nhanh chóng bị mất. Bà cùng chồng con bị quân Nguyễn bắt được ở huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An.
Khi nghe bà bị bắt, Nguyễn Ánh sai người đem đến trước mặt hỏi giọng đắc chí: Ta và Nguyễn Huệ ai hơn? Bà trả lời: Chúa công ta tay kiếm tay cờ mà làm nên sự nghiệp, trong khi nhà người đi cầu viện ngoại bang, hết Xiêm đến Tàu, làm tan nát cả sơn hà, cùng đều bị chúa công ta đánh cho không còn manh giáp. Đem so với Chúa công ta, nhà ngươi chẳng qua là ao trời nước vũng. Ánh gằn giọng: Người có tài sao không giữ nổi ngai vàng cho Cảnh Thịnh? Bà đáp: Nếu có một nữ tướng như ta nữa thì cửa Nhật Lệ không để lạnh. Nhà ngươi khó mà đặt chân được tới đất Bắc hà…
Ngày 6 tháng 11 năm Nhâm tuất (20-11-1802), vua tôi nhà Tây Sơn trong đó có Bùi Thị Xuân cùng chồng con bị đưa ra pháp trường tại Phú Xuân. Chồng bà bị xử tội lột da, còn bà cùng con gái độc nhất 15 tuổi tên Trần Bích Xuân bị xử voi dày (bãi chém An Hoà, ngoại ô Huế, ở đó khoảng 200 tướng lĩnh của nhà Tây Sơn đã hiên ngang ra pháp trường).
Theo tư liệu của một giáo sĩ phương Tây De La Bissachère viết năm 1807 - người có dịp chứng kiến - đã miêu tả buổi hành hình được tóm lược như sau:
“Đứa con gái trẻ của bà (Bùi Thị Xuân) bị lột hết y phục. Một thớt voi từ từ tiến đến. Cô gái biến sắc rồi mặt trắng bệch như tờ giấy. Nàng ngoảnh nhìn mẹ, kêu thất thanh. Bà Xuân nghiêm mặt trách: Con phải chết anh dũng để xứng đáng là con của ta!
Đến lượt bà, nhờ lớp vải ở bên trong quấn kín thân thể, nên tránh khỏi sự lõa lồ. Và bà rất bình thản bước lại trước đầu voi hét một tiếng thật lớn khiến voi giật mình lùi lại. Bọn lính phải vội vàng bắn hỏa pháo, đâm cây nhọn sau đít con vật để nó trở nên hung tợn, chạy bổ tới, giơ vòi quấn lấy bà tung lên trời. Nhưng trái với lệ thường, nó không chà đạp phạm nhân như mọi bận mà bỏ chạy vòng quanh pháp trường, rống lên những tiếng đầy sợ hãi khiến hàng vạn người xem hoảng hốt theo” (Theo Thiên Nam nhân vật chí, bà bị xử lăng trì, thi hài bị thiêu rụi).

II. Những tư liệu liên quan

1. Trận chiến đấu oanh liệt cuối cùng

Tóm tắt theo Sử sách, bà Bùi Thị Xuân cưỡi voi liều chết đánh lũy Trấn Ninh, nơi Nguyễn Ánh đang cố thủ, từ sáng đến trưa chưa chịu lui. Rồi bà còn giành lấy dùi tự tay thúc trống liên hồi. Lúc bấy giờ Nguyễn vương cùng tướng tá đã hốt hoảng vội chia quân vượt sông Linh Giang đánh bọc hậu hòng mở đường máu thoát thân. Nào ngờ, vua Cảnh Thịnh nhát gan thấy quân Nguyễn tràn qua nhiều, tưởng nguy khốn liền cho lui binh. Ngay lúc đó bà cũng nhận được tin Nguyễn Văn Trương phá tan thủy binh của Tây Sơn ở cửa biển Nhật Lệ (Quảng Bình) cướp được hầu hết tàu thuyền và tướng giữ cửa Nguyễn Văn Kiên cũng đã đầu hàng.
Trước tình thế đang thắng thành bại này, đội quân của bà bỏ cả vũ khí, đạn dược để chạy.
Đây có thể nói là trận chiến đấu oanh liệt cuối cùng của bà để hòng cứu vãn tình thế. Nhưng ngờ đâu nhà Tây sơn, sau trận này thêm trượt dài trên đà suy vong, không sao gượng lại được nữa.

Trong bài "Bùi Phu nhân ca" của cụ Vân Sơn Nguyễn Trọng Trì có đoạn rằng:

Xuân hàn lãnh khí như tiễn đao 
Xuân phong xuy huyết nhiễm chinh bào 
Hoàng hôn thành dốc bi già động 
Hữu nhân diện tỷ phù dung kiều 
Phu cổ trợ chiến Lương Hồng Ngọc 
Mộc Lan tòng quân Hoàng Hà Khúc 
Thùy ngôn cân quắc bất như nhân ? 
Dĩ cổ phương kim tam đinh túc
Nghĩa là:
Khí xuân lạnh như khí lạnh nơi lưỡi dao bén thoát ra. 
Gió xuân thổi máu bay thẩm đẩm tấm chinh bào 
Nơi góc thành tiếng tù và lay động bóng hoàng hôn 
Có người dung nhan kiều diễm như đóa hoa phù dung 
Thật chẳng khác Lương Hồng Ngọc đánh trống trợ chiến cho ba quân. 
Và nàng Mộc Lan xông trận nơi sông Hoàng Hà
Ai bảo khăn yếm không bằng người ? 
Từ xưa đến nay vững vàng thế ba chân vạc.

Ðây là đoạn tác giả tả Bùi Thị Xuân lúc đánh Ðâu Mâu (Quảng Bình). Thành lũy sắp bị hạ được thì có tin thủy quân Nhật Lệ bị quân nhà Nguyễn đánh tan. Nguyễn Quang Toản hoảng hốt ra lệnh lui binh. Không sao cản được, Bùi nữ tướng đành phải mở đường máu để lui binh.

Người đời sau cũng có́ thơ vịnh bà:

Vận nước đang xoay chuyển 
Quần thoa cũng vẫy vùng 
Liều thân lo cứu chúa 
Công trận quyết thay chồng. 
Khảng khái khi lâm nạn! 
Kiên trinh lúc khốn cùng 
Ngàn thu gương nữ liệt 
Gương sáng hãy soi chung.

Trong “Còn mãi đến bây giờ”, bút ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng viết:

Các gia đình họ Bùi hiện còn ở làng này đều là phái nhánh, còn phái chánh đã bị Gia Long giết sạch.
Bà sanh ở ấp Xuân hòa, nay gọi là Phú Xuân. Lớn lên, bà đi học võ nghệ với một võ sư người việt ở Thuần Truyền. Lò võ đó nổi tiếng từ thời Lê đến nay. Môn sinh rất đông, cả nam lẫn nữ và bà làm trưởng môn. Ít lâu sau ngày Tây Sơn khởi nghĩa, bà dẫn cả đoàn võ sinh đến tòng quân, theo Nguyễn Huệ đánh Đông dẹp Bắc, sự nghiệp lừng lẫy. Ở bên Phú An nay còn một đám đất gọi là Trường Võ, đó là nơi bà mở trường dạy võ nghệ cho các nghĩa sĩ trong quân đội Tây Sơn.
Ngoài tài năng võ nghệ, cầm binh, huấn luyện voi rừng (nghe đâu dãy gò Dinh, sông Côn là bãi tập voi của bà) …bà còn giỏi cả việc khai hoang, làm thủy lợi như biến lòng một con suối khô, chỉ toàn là cát đá thành vùng đất màu mỡ “nhất đẳng điền” tên là ruộng Trại, rộng hơn hai chục héc ta để lấy lúa nuôi quân.
… Chúng tôi đi thêm một quãng đường làng, rẽ vào một xóm nhỏ gồm ba bốn túp nhà xúm xít trên một khu đất chật chội, dừng lại trước một căn nhà hoang vắng...
… Đó là một căn nhà nhỏ, quá nhỏ đến không ngờ, nhà rường ba gian nhưng tất cả chỉ rộng độ 5 mét, nên 2 gian bên bị ép lại thành hai cái chái chật chội chỉ vừa đủ đặt một chiếc chõng đơn cho một người nằm… Đồ đạc không còn lại gì, ngoài một chiếc tủ gỗ mộc, phía dưới có những ngăn kéo, hình như xưa dùng để đựng quầm áo. Tất cả chỉ có thế, từ thế kỷ mười tám cho đến bây giờ!

 

2. Trần Quang Diệu (1746 – 1802)

Danh tướng dưới triều Tây Sơn, người làng Kim Giao, xã Liên Chiểu (nay thuộc xã Phổ Thuận, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi) Nhưng cũng có ý kiến khác cho rằng quê quán của ông ở xã Ân Tín, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định (sau đời Trần Quang Diệu, họ Trần dời ra làng Tú Sơn, nay thuộc xã Đức Lân, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi).
Ông tham gia phong trào Tây Sơn từ đầu .Năm 1789, ông được Nguyễn Huệ cử làm Đốc trấn Nghệ An, xây dựng thành Phượng Hoàng trung đô. Những năm 1790 – 1791, ông chỉ huy các cuộc đánh dẹp lực lượng chống đối do Lê Duy Chỉ cầm đầu. Năm 1792, Quang Trung mất, ông giữ chức Thái phó, là một trong “Tứ trụ triều đình" để giúp vua Cảnh Thịnh (Nguyễn Quang Toản). Tuy vua mới hay nghe lời gièm pha nhưng vợ chồng ông vẫn tận tình giúp nhà Tây Sơn. Có thể nói thời bấy giờ, ông là chủ tướng quan trọng nhất trong việc đánh dẹp thế lực Nguyễn Ánh.
Năm 1800 - 1801, ông vây kinh thành Quy Nhơn cũ của vua Thái Đức (Nguyễn Nhạc) vừa mới bị quân Nguyễn Ánh đánh chiếm. Trận vây thành rồi bị cầm chân kéo dài gần một năm ở đây, tạo thời cơ tốt cho Nguyễn Ánh đánh chiếm Phú Xuân rồi bắt sống Quang Toản. (Tướng thủ thành của nhà Nguyễn là Võ Tánh tự vẫn chứ không giao thành). Lực lượng của Nguyễn Ánh sau đó phản công ngày càng ác liệt. Cuối cùng Quang Diệu và vợ con đều bị bắt sống và bị giết.
Những bậc cao niên nhất trong tộc đã kể rõ rằng, sau khi ông chịu án: bị xử lột da sống, có hai người hầu thân cận đã lén đánh cắp được chỉ một mảnh áo nhỏ dính máu của ông để mang về táng trong “mộ gió”… (Chỉ nghĩ đến thôi, tôi thật sự rùng mình vì phương pháp giết người này).

3. Vua Quang Toản(1713 - 1802) bị bắt:

Ngày 18, Nguyễn Ánh tiến ra Thăng Long, vua Quang Toản chạy lên phía Bắc, qua Xương Giang (thuộc tỉnh Bắc Giang) ban đêm vào chùa Thọ Xương xin ngủ trọ, bị thôn dân vây bắt, quân lính tùy tùng đều tan rã cả. Em là Nguyễn Quang Thùy và vợ chồng đô đốc Tú treo cổ tự tử.

***

Cụ Nguyễn Đức Đài, ở thôn Long Trì, xã Tân An, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang, năm nay đã ngoài 90 tuổi kể: Khi các cụ nhà tôi bắt được, cất giấu vua ngoài chuông Rậm, chuông Rí (hồ nước đầy cỏ năn cỏ lác giữa đồng), họ để ngài nằm chìm mình dưới nước, chỉ thò mũi lên để thở, trên mặt nước có ngụy trang bằng một chiếc lá sen. Rồi họ nấu cơm mang ra mời, vua bảo: Trẫm không ăn đâu, trẫm hết lộc rồi, chẳng sống làm gì nữa…
Anh Nguyễn Đức Đoan, con cụ Đài, tuổi đã gần 50, dựa vào gia phả viết bằng chữ Hán đã có từ 300 trước, kể tiếp:
Không ngờ có kẻ chỉ điểm cho quân lính, voi ngựa kéo về lùng sục bắt bớ, nhiều người dân tham vàng bỏ ngãi đã bắt nhà vua, đóng gông, bỏ vào cũi sơn son đem nộp cho quan quân lĩnh thưởng. Hai cụ nhà tôi dò la mới biết vợ chồng tên phường chèo làm chỉ điểm. Họ bèn đem anh chồng ra giết, riêng con vợ của nó quá xinh nên một ông gạ ép làm vợ; không ngờ chị ta cũng là người tiết nghĩa nên bế con, lao đầu xuống mộ chồng tự vẫn.
Người trong dòng tộc đời sau kể vậy, nhưng theo nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Phong, dẫn trong sách "Nhìn ngược từ nóc nhà Đông Dương" của Đỗ Doãn Hoàng, tr 349 ghi: Chúng tôi đã nghiên cứu từ lâu, dòng họ Nguyễn Đức có 18 đời Quận công, có 2 người Quận công sau cùng được phong nhờ vào thành tích “bắt vua” mà có.

***

Vài tháng sau, Gia Long về Phú Xuân, sửa lễ cáo miếu dâng tù. Quang Toản lúc bấy giờ mới 19 tuổi, cùng những người con khác của anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ đều bị Gia Long sai dùng cực hình 5 voi xé xác.
Còn Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc cũng bị trả thù rất dã man: Mồ mả bị khai quật, hài cốt bị giã nát vứt đi; đầu lâu của Nhạc, Huệ, Toản và mộc chủ của vợ chồng Nguyễn Huệ đều bị giam ở nhà Đồ Ngoại, sau lại đưa vào cấm cố vĩnh viễn trong ngục thất
Triều Tây Sơn từ đây chấm dứt.

4. Tương truyền Võ Văn Dũng và Bùi Thị Xuân có chung một nguồn gốc?

Thời chúa Nguyễn (1533 - 1775), hai anh em Lê Kim Bảng và Lê Kim Bôi gốc người Nghệ An vào lập nghiệp ở vùng Phú Phong. Để tránh sự chú ý của chính quyền về gốc tích của mình, họ hẹn nhau khi sanh con, cải sang họ mẹ. Sau Lê Kim Bảng lấy con gái họ Bùi ở Phú Phong, sinh hạ Bùi Thị Xuân, Bùi Thị Thu và Bùi Thị Nhị, không có con trai. Lê Kim Bôi làm rể nhà họ Võ ở Phú Mỹ (?) sinh được con trai, Võ Văn Dũng là con út. Vậy Bùi Thị Xuân và Võ Văn Dũng là chị em thúc bá.
Một thuyết khác cho rằng nữ tướng Bùi Thị Xuân là ái nữ của Bùi Đắc Chí và gọi Bùi Đắc Tuyên bằng chú, quê quán ở ấp Xuân Hòa khách hộ, thôn An Hòa, thuộc Thời Đôn, huyện Tuy Viễn. Sinh trưởng trong một gia đình khá giả, bà được theo đòi nghiên bút, lại khéo tay nổi tiếng viết chữ đẹp và công dung ngôn hạnh vẹn toàn. Tuy vậy, địa thế và phong thổ ảnh hưởng rất lớn đến con người, quê hương bà chỉ có phía tây liền với Phú Phong, còn phía đông lấy suối làm ranh giới, nam giáp núi, bắc giáp sông; bà được hun đúc bởi đất hiểm nên không theo nếp nữ nhi thường tình mà thích võ hơn văn.
(Theo tài liệu trong Dactrung.net)

5. Trấn Ninh, Ðâu Mâu, Nhật Lệ

Ba địa danh này đều thuộc Quảng Bình. Ðó là ba căn cứ quân sự rất trọng yếu ở địa đầu trấn Thuận Hóa.
- Trấn Ninh ở địa phận xã Phú Ninh, huyện Phong Lộc. Năm Nhâm Dần (1662) Theo lời tâu của Nguyễn Hữu Dật và Nguyễn Hữu Tấn, Chúa Hiền vương cho đắp lũy Trấn Ninh và đắp lũy Sa Phụ để nương tựa nhau để chống ngăn giặc. Họ Trịnh đem quân vào đánh Thuận Hóa, đánh mấy tháng không qua khỏi hệ thống lũy này phải rút quân trở về Bắc.
- Phá Nhật Lệ ở đông bắc huyện Phong Lộc, cũng thuộc xã Phú Ninh. Chu vi ước 5 dặm. Phía đông có gò cát bao la, đồi cao xanh rậm, biển cả chạy quanh ở đông bắc, các núi triều cũng ở tây nam sông Nhật Lệ, tức sông Ðồng Hới, chạy ra Phá.
- Núi Ðâu Mâu ở phía tây huyện Phong Lộc, tọa lạc xã Lệ Kỳ. Núi gò trùng điệp, cây cối sầm uất. Ðỉnh cao nhọn hình như mão đâu mâu, khí thế hùng vĩ. Chân núi gối sông Nhật Lệ, lũy do chúa Nguyễn đắp để ngăn quân Trịnh, chạy dài dưới chân núi.

III. Lời kết

Thật lòng nếu không đọc được bài bút ký của Hoàng Phủ vừa nêu trên, chắc tôi không có ý định tìm hiểu thêm về Bùi Thị Xuân và soạn lại đề tài đã được nhiều người luận bàn rồi. Nhưng chẳng hiều sao khi đọc trong sách sử đến đoạn Nguyễn Ánh dụ hàng vợ chồng Bùi Thị Xuân nhiều lần mà không được, khiến tôi nảy ra băn khoăn: Vua Nguyễn có “màu mè” không khi tánh vua vốn là người hay sợ, hay nghi kỵ người tài, nhất là vợ chồng bà đã từng là kẻ khác phía và đã bao lần khiến quan quân nhà Nguyễn phải điêu đứng ?
Và ta nên hiểu chuyện Nguyễn Ánh dành cho gia đình họ những hình phạt quá thảm khốc như thế nào đây? Bởi lẽ nếu nhà vua sẵn tấm lòng khoan thứ; thật tâm mến mộ hiền tài, nhân cách ấy thì dù không chiêu hàng được, theo tôi, vua cũng sẽ lấy cái cớ “Trần Quang Diệu tha chết cho cả bọn tướng sĩ và còn sai người làm lễ liệm táng Võ Tánh & Ngô Tùng Châu tại thành Qui Nhơn vào năm 1801” để dòng tộc họ không bị giết sạch, gia đình họ được chết toàn thây hay chí ít ra cô con gái vô tội vừa vào độ tuổi xuân thì có được một con đường sống.
Và “đó là một căn nhà nhỏ, quá nhỏ đến không ngờ, … hai cái chái chật chội chỉ vừa đủ đặt một chiếc chõng đơn cho một người nằm… Đồ đạc không còn lại gì, ngoài một chiếc tủ gỗ mộc…”. Những câu văn giản dị này sao mà có sức gây nhói lòng người. Ngẫm chồng là Thái phó, vợ là Đô đốc, quyền lực nằm trong tay một thời gian dài, ấy vậy mà “nhà cửa, của cải đơn sơ đến không ngờ”, chẵng đáng cho những người hôm nay tìm đọc về bà rồi sống tốt hơn sao?

 

Bùi Thụy Đào Nguyên

Theo hobuinghean.com.vn

Tổng số điểm của bài viết là: 10 trong 2 đánh giá

Xếp hạng: 5 - 2 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Mã bảo mật   

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Liên kết website
Thống kê
  • Đang truy cập57
  • Máy chủ tìm kiếm2
  • Khách viếng thăm55
  • Hôm nay18,932
  • Tháng hiện tại459,521
  • Tổng lượt truy cập40,296,683
Đăng ký
Hãy đăng nhập thành viên để trải nghiệm đầy đủ các tiện ích trên site
Mã bảo mật
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây